Có nhiều bài kinh Đức Phật dạy cho hàng
cư sĩ rất gần gũi và thiết thực, giúp cho
người Phật tử tại gia tìm thấy an lạc, hạnh
phúc ngay trong hiện tại;cũng có nghĩa là
đóng góp cho sự hài hòa, ổn định của xã
hội.
![]() |
Phật pháp ứng dụng- Phật dạy về các pháp tăng trưởng tài sản, an lạc |
Điều đó cho thấy Đức Phật không chỉ quan tâm
đến đời sống xuất gia cầu giác ngộ, giải thoát, mà Ngài
còn quan tâm đến đời sống thế tục của những ai còn
vương vấn bụi trần, giúp cho những người có nhân
duyên với Ngài, có nhân duyên với giáo pháp của Ngài
đạt được sự thăng bằng vững chãi để sống cuộc sống
hướng thượng.
Tăng Chi Bộ kinh (tập III), chương Tám pháp, phẩm
Gotami, kinh Dighajanu, phần Người Koliya có thuật
lại như sau:
Một hôm, có vị cư sĩ đệ tử Phật tên là Dighajanu đi
đến đảnh lễ và bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, chúng
con là những người gia chủ còn hưởng thụ các dục, sống
hệ phược với vợ con, dùng các thứ hương hoa, phấn sáp,
thọ lãnh vàng bạc.
Bạch Thế Tôn, xin hãy thuyết pháp cho
những người như chúng con, thuyết những pháp đem
đến cho chúng con hạnh phúc, an lạc ngay trong hiện tại
và hạnh phúc, an lạc trong tương lai”.
Đức Phật đã dạy
Dighajanu rằng:
“Này cư sĩ, có bốn pháp này đưa đến an
lạc, hạnh phúc ngay trong hiện tại và an lạc hạnh phúc
trong tương lai cho người sống đời sống tại gia. Bốn pháp
đó là:
1. Đầy đủ sự tháo vát;
2. Đầy đủ sự phòng hộ;
3.
Làm bạn với thiện;
4. Sống thăng bằng, điều hòa”.
Qua bài kinh, Đức Phật cho biết, người Phật tử tại gia
là người sống đời sống thế tục còn các mối quan hệ gia
đình, xã hội, vì thế không thể không có nghề nghiệp,
công việc ổn định giúp nuôi sống bản thân và gia đình,
đồng thời cống hiến phần nào cho xã hội. Và dù làm
nghề nghiệp, công việc gì cũng cần phải tinh chuyên
và thiện xảo (khéo, giỏi, có chuyên môn, trình độ kỹ
thuật cao), cần phải nhiệt tình, siêng năng, tháo vát;
cần phải biết tính toán, có khả năng tự làm và hướng
dẫn người khác làm. Nếu làm việc với quy mô lớn cần
phải giỏi điều hành, quản lý.
Như thế gọi là có đầy đủ
sự tháo vát.
Khi đã có được tài sản của cải bằng sự nỗ lực trong
công việc, trong nghề nghiệp chân chính, người cư sĩ
cần phải biết giữ gìn tài sản, của cải đó, không để cho
tiêu tán, mất mát do vua quan chiếm đoạt, do trộm
cướp, do bị nước trôi, lửa cháy, do bị vợ con phá tán
Tạo ra tài sản đã khó, gìn giữ, bảo hộ tài sản đó lại càng
khó hơn. Được như vậy gọi là có đầy đủ sự phòng hộ.
Kế đến là đời sống đạo đức. Đời sống đạo đức cũng
là một trong những điều cần phải quan tâm hàng đầu,
bởi đó là nguồn cội của an vui, hạnh phúc, là yếu tố
tạo sự bền vững cho đời sống người Phật tử tại gia.
Về
phương diện này, Đức Phật dạy người Phật tử tại gia
phải biết làm bạn với thiện. Người Phật tử tại gia cần
phải có lòng tin chân chính, có giới (những phẩm chất
đạo đức), có trí tuệ và biết bố thí, làm những việc có
ích cho nhân quần, xã hội. Khi xây dựng các mối quan
hệ, người Phật tử cần tiếp xúc, gần gũi, làm bạn và hợp
tác với những người đáng tin cậy, có nhân phẩm, đạo
đức tốt, nếu những người đó có đầy đủ tín, giới, trí tuệ
và biết bố thí, làm những việc có ích cho đời như mình
thì càng hay.
Sống thăng bằng, điều hòa là một trong những yếu
tố quan trọng để xây dựng đời sống an ổn, hạnh phúc
lâu dài, bền vững. Về phương diện này Đức Phật dạy
người Phật tử tại gia cần phải giữ cân bằng giữa đời
sống vật chất và tinh thần. Sự nghèo nàn về vật chất
hay tinh thần, hoặc mất cân đối giữa vật chất và tinh
thần đều dẫn đến những bất ổn trong đời sống. Còn
một lãnh vực nữa cần phải có sự cân bằng, điều hòa,
đó là các khoản thu và chi.
Cần phải đảm bảo khoản
thu lớn hơn khoản chi, cần phải tránh các khoản chi
tiêu bừa bãi, vô tội vạ, không tiêu xài hoang phí nhưng
cũng không keo kiết bỏn sẻn, sử dụng tài sản một cách
hợp lý, có nghệ thuật.
Trong bài kinh trên, Đức Phật còn dạy thêm người
cư sĩ Phật tử nên lưu ý “bốn cửa xuất” tài sản, khiến cho
gia nghiệp sa sút, tiêu tán. Bốn cửa đó là:
Đam mê đàn
bà;
đam mê rượu chè;
đam mê cờ bạc;
giao du với kẻ
ác.
“Bốn cửa xuất” tài sản này từ xưa đến nay người đời
thường hay phạm phải.
Cũng kinh Tăng Chi Bộ ghi lại, trong một lần thuyết
pháp cho cư sĩ Anàthapindika (Cấp Cô Độc), vị Phật
tử thuần thành đồng thời là nhà ngoại hộ của Tăng
đoàn, Đức Phật đã nói về bốn niềm vui của người cư
sĩ.
Những điều này hết sức gần gũi và thiết thực đối với
những người sống đời sống thế tục. Đức Phật dạy:
“Có bốn niềm vui chính đáng mà người cư sĩ có thể
thọ hưởng, thỉnh thoảng và tùy cơ hội, đó là:
niềm vui có
được của cải, niềm vui được giàu có, niềm vui không nợ
nần và niềm vui không bị chê trách.
Thế nào là niềm vui có của cải?
Ở đây, gia chủ có của cải
nhờ phấn đấu tích cực, góp gom được bằng sức của bàn
tay, bằng mồ hôi, đúng pháp, tích lũy được một cách đúng
pháp, và có ý nghĩ: ‘Của cải này của tôi có được nhờ phấn
đấu tích cực, tích lũy đúng pháp’.
Do nghĩ thế, niềm vui và
thỏa mãn đến với người đó. Đó là niềm vui có của cải.
Thế nào là niềm vui được giàu có?
Ở đây, vị gia chủ được
giàu có nhờ phấn đấu tích cực, vui vẻ nhờ giàu có và làm
nhiều việc lành. Vì có ý nghĩ: ‘Nhờ giàu có mà có thể hưởng
thụ sự giàu có và làm các việc lành’, cho nên niềm vui và sự
thỏa mãn đến với người đó. Đó là niềm vui được giàu có.
Thế nào là niềm vui không có nợ nần? Ở đây, vị gia chủ
không có nợ nần lớn hay nhỏ đối với bất cứ một ai.
Vì có
ý nghĩ: ‘Tôi không có nợ nần dù lớn hay nhỏ đối với bất cứ
một ai’, cho nên niềm vui và sự thỏa mãn đến với người
đó. Đó là niềm vui không có nợ nần.
Thế nào là niềm vui không bị chê trách? Ở đây, vị Thánh
đệ tử có niềm vui vì các hành động của thân, miệng và ý
đều không có gì đáng chê trách. Với ý nghĩ ‘Tôi không có
gì đáng bị chê trách ở thân, miệng và ý’, cho nên niềm vui
và sự thỏa mãn đến với người đó”.
Qua lời dạy của Đức Phật trong những bài kinh trên,
người cư sĩ Phật tử thấy được đâu là nguồn gốc của những
niềm vui mà người tại gia có thể có được, để từ đó khai
thác và tạo dựng cho mình một đời sống hạnh phúc.
Về các mối tương quan với gia đình và xã hội, trong
Trường Bộ kinh (tập II), kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt,
Đức Phật dạy người Phật tử tại gia cần thiết lập tốt các
mối quan hệ như: quan hệ cha mẹ với con cái, quan hệ
vợ chồng, quan hệ thầy trò, quan hệ giữa người giúp
việc và chủ v.v..
Các mối quan hệ đều đem lại những
trách nhiệm, bổn phận mà người Phật tử phải giữ gìn.
Về bổn phận con cái đối với cha mẹ, Đức Phật dạy: Con
phải phụng dưỡng cha mẹ; săn sóc, bảo bọc cha mẹ
lúc tuổi già; giữ gìn danh dự và truyền thống gia đình;
đỡ đần các việc nặng nhẹ cho cha mẹ; giữ gìn tài sản
thừa tự.
Bổn phận cha mẹ đối với con cái cần gìn giữ
năm điều: Ngăn chặn con làm điều ác, khuyến khích
con làm điều thiện, dạy con nghề nghiệp, dựng vợ gả
chồng cho con, trao của thừa tự cho con đúng thời.
Theo Tương Ưng Bộ kinh (tập V), chương XI, phẩm
Phước đức sung mãn, Đức Phật dạy người Phật tử tại
gia tuy sống đời sống thế tục nhưng tâm ý phải hướng
thượng, bởi đó là nguồn cội của an vui, hạnh phúc
trong đời này và đời sau. Phải là người quy y Tam bảo
(Phật, Pháp, Tăng), thọ trì năm giới (không sát sanh,
không lấy của không cho, không tà hạnh, không vọng
ngữ, không dùng chất gây nghiện), có đầy đủ niềm tin
chân chính, thanh tịnh, có trí tuệ và biết bố thí; đó mới
thật sự là người cư sĩ Phật tử đúng nghĩa.
Với tâm từ bi vô lượng, Đức Phật đã tùy căn cơ trình
độ của chúng sinh mà thuyết pháp giáo hóa; tùy nhu
cầu, ước muốn mà giúp cho hàng xuất gia lẫn tại gia đều
có được lợi lạc, tìm thấy nguồn an vui, hạnh phúc. „
0 nhận xét:
Đăng nhận xét