Có người cho rằng con người là một động
vật kỳ lạ vì phải dành đến hàng chục năm
để học mới có thể lo cho cuộc sống của
mình ở mức trung bình.
Điều này hoàn
toàn khác với động vật khác khi hầu hết
đều có thể tự lo cho cuộc sống của mình gần như ngay
khi mới ra đời.
Theo tôi, chính việc học là một phần
của cuộc sống, để giúp con người chính là “người” khi
xóa bỏ dần tàn dư “con” đeo bám suốt đời nhờ vào việc
học. Ngẫm lại riêng cuộc đời mình đã trải qua 65 năm,
tôi thấy mình đã dành phần lớn cho việc học, nhưng
gần như rất hiếm khi tự hỏi: “Học để làm gì, vì sao phải
học?”.
![]() |
Phật pháp ứng dụng - Học để làm gì? |
Thời gian học tiểu học với tuổi đời còn quá nhỏ,
học mà không biết để làm gì là chuyện thường tình.
Nhưng suốt thời gian học trung học, tôi chỉ biết học
vì mẹ tôi bảo phải thế và vì thấy bạn bè mình ai cũng
phải học.
Đến khi học đại học, nhờ thi đậu vào trường
đại học dược khoa, tôi tự mình hình dung học để trở
thành dược sĩ. Nghĩa là học để biết, để làm một nghề
nuôi sống mình suốt cuộc đời sau này.
Nhìn lại nền giáo dục của nước Việt Nam trong thời
gian qua ta thấy nhiều yếu kém.
Đến độ phải đặt vấn
đề là phải “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo”. Suy đi ngẫm lại muốn đổi mới căn bản, toàn diện
nền giáo dục, trước hết phải trả lời câu hỏi rất hiếm
người tự hỏi: “Học để làm gì, vì sao phải học?”.
Như tôi,
sau 65 năm sống trên đời dành phần lớn cho việc học,
nhờ đọc bài báo nói về bốn trụ cột của việc học, khi đó
mới đặt ra câu hỏi cho riêng mình “Thật sự mình đã học
để làm gì?”.
Khi chuẩn bị bước vào thiên nhiên kỷ mới, thấy rằng
học để làm gì thật sự là vấn đề rất lớn của mọi hoạt
động giáo dục, cho nên Ủy ban Quốc tế về Giáo dục
của Cơ quan Giáo dục, Khoa học và Văn hóa thuộc Liên
Hiệp Quốc (UNESCO) đã công bố bốn trụ cột cho việc
học dựa vào trả lời cho câu hỏi: “Học để làm gì?”. Theo
UNESCO, học là làm bốn việc sau, tức bốn trụ cột của
giáo dục theo tiếng Anh là: “learning to know, learning
to do, learning to live together and learning to be”.
Dịch
sang tiếng Việt, ba việc đầu là: học để biết, học để làm,và học để chung sống với người khác, nhưng việc thứ
ba thì ôi thôi, tiếng Việt mình phong phú quá, được
dịch thành hàng lô việc như sau: học để xác lập mình,
học để hoàn thiện mình, học để sống cho mình, học để
khẳng định bản thân
. Riêng “học để khẳng định bản
thân” có vẻ được chuộng nhất vì đã có một số trường
học trương bảng hoành tráng hoặc sơn chữ to trước
mặt tiền trường nêu bốn trụ cột: “Học để biết, học để
làm, học để chung sống và học để khẳng định bản
thân”.
Khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn”, trước đây
đã được trang trọng phô trương ở các trường, nay vẫn
giữ lại nhưng xem có vẻ khép nép nếu đứng cạnh bốn
trụ cột đó. Nói là khép nép vì tính chất quá xưa cũ so
với hiện đại nhưng “Tiên học lễ, hậu học văn” vẫn còn
lý do tồn tại vì tình trạng xuống cấp của đạo đức xã hội
vẫn nhan nhản trong cuộc sống.
“Học để biết, học để làm, học để chung sống với
người khác” dịch từ ba trụ cột việc học của UNESCO
có thể xem tạm ổn. Ngẫm lại từ cuộc đời mình, suốt
thời gian đi học, tuy không đặt ra câu hỏi học để làm gì
nhưng tôi thật sự mường tượng học để biết. Tôi đã học
nhiều môn học để có kiến thức về thế giới, hiểu biết về
cuộc sống xung quanh, nhận thức được đất nước dân
tộc mình ngày càng tăng trưởng.
Về học để làm và học
để chung sống với người khác, phải đợi đến lúc bước
chân vào đại học; và cũng thế, tức cũng không đặt ra
câu hỏi để tìm cách trả lời, tôi cũng mường tượng việc
học ở giai đoạn này trước hết cũng là để biết, biết những
điều mà một dược sĩ phải biết; sau đó là học để làm, làm
những việc của một dược sĩ hành nghề sau này; và tiếp
đến là học để chung sống với người bệnh cần dùng đến
thuốc, với các đồng nghiệp tiếp xúc hằng ngày và với cả
xã hội cần khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần.
Còn việc sau cùng nếu gọi là học để khẳng định bản
thân hay học để xác lập mình, học để sống cho mình
dịch từ trụ cột thứ tư việc học của UNESCO thì tôi thấy
không ổn. Vì sao như vậy? Chính các từ như “khẳng
định”, “xác lập”, “sống cho mình” rất dễ tôn sùng “cái tôi”
đưa đến bóp méo, làm sai lệch mục đích của việc học.
Trên con đường phát triển, con người luôn luôn hiện
hữu với “cái tôi” xấu xí. Thoát thai từ một động vật, con
người dính liền với bản năng luôn phóng chiếu đủ loại
dục vọng.
Đơn cử, một nhu cầu động vật trong con
người là luôn mong muốn an toàn, an toàn về thể chất
và an toàn về tinh thần - tâm lý và thường vì sự an toàn
đó mà bất kể lợi ích của tha nhân. Từ đó con người sinh
ra tham lam, đố kỵ, tị hiềm… trong quan hệ với nhau.
Suốt quá trình tồn tại và phát triển, con người gây ra
biết bao tàn nhẫn, khổ đau cho mình và cho người
xuất phát từ “cái tôi” luôn muốn được bành trướng
phóng hiện, cái “bản ngã” chứa quá nhiều dục vọng.
Có người nói: “Con người tự do phải là đích đến của
giáo dục”.
Thật ra, con người tự do không phải là con
người sống bất kể các quy luật hài hòa của cuộc sống
và các định chế cần thiết của xã hội, mà là con người tự
do giải thoát khỏi những dục vọng thấp hèn, giải thoát
khỏi “cái tôi” gắn với “con” thay vì “người”.
Chính vì vậy,
một mục tiêu của việc học phải là làm cho con người
trở thành “vô ngã” tức làm chủ được mình, giải phóng
mình khỏi tham sân si, kiểm soát mình để không nô lệ
vào “cái tôi” thấp hèn nhưng ma mãnh, quỷ quyệt. Điều
kiện tiên quyết để con người “vô ngã” là con người phải
thấu hiểu “cái tôi” ma mãnh quỷ quyệt, cái “bản ngã”
do nhu cầu động vật cứ hướng về sự thấp hèn. Từ cột
trụ “learning to be” có nghĩa là “học để sống” mà dịch
thành “học để khẳng định bản thân”, “học để xác lập
mình” hay “học để sống cho mình” dễ đi đến học để
khẳng định, xác lập “cái tôi” ma mãnh, “cái tôi” bao hàm
“con” hơn “người”.
Có người dịch “học để hoàn thiện
mình” chính là để không nhập nhằng với cái tôi đáng
ghét mà hướng đến sự hoàn thiện nhờ giáo dục. Tuy
nhiên, như thế lại không lột tả được nghĩa của “to be”.
Sau khi phân tích như trên, tôi mạo muội đề nghị
cột trụ thứ tư của việc học là “học để sống và hiểu bản
thân”. Toàn bộ bốn cột trụ việc học theo UNESCO theo
tôi là: “Học để biết, học để làm, học để chung sống và học
để sống và hiểu bản thân”. Chính trụ cột “học để sống và
hiểu bản thân” sẽ làm cho ba trụ cột kia càng rõ nghĩa.
Ở nước ta, mục đích học để làm quan đã ăn sâu vào
tâm não dân ta rất lâu rồi, cho nên cho đến nay “học
để biết, học để làm” vẫn là tập trung học để nhồi nhét
thật nhiều kiến thức và làm thì qua loa và cũng chỉ để
thi (để được làm quan mà). Học để biết để làm xem kỹ
lại chính là “học để thi”. Rõ ràng, nếu mọi người – từ
người dạy đến người học – đều thấm nhuần tinh thần
“học để sống và hiểu bản thân” thì sẽ ý thức rằng sự
biến dạng học để biết để làm thành học để thi thật ra chỉ
vì “cái tôi” tham lam, chạy theo mong cầu không chính
đáng.
Khi quan hệ mình với bản thân mình được thấu
hiểu để có sự phản tỉnh, khi đó bản thân được tỉnh ngộ.
Thế là người ta sẽ chuyển hóa để việc học là học để
biết để làm thật sự chứ không phải chỉ để thi.
Còn “học để chung sống với người khác” ở nước ta thì
như thế nào? Trong thời gian dài, ở ta chính khẩu hiệu
“Mình vì mọi người, mọi người vì mình” đã trở thành
nền tảng cho việc học để chung sống với người khác.
Mình vì mọi người nhưng bản thân mình không hiểu
chính mình. Mình không hiểu là mình luôn luôn bị “cái
tôi” thiên về phần “con” thôi thúc, kềm chế, kiểm soát để
luôn xảy ra cảnh trạng “mình vì mọi người một cách ma
mãnh dối trá, ngược lại, mọi người vì mình với bản thân
mình luôn tìm cách phóng đại, bành trướng”. Chính “học
để sống và hiểu bản thân” sẽ là tiền đề vững chắc để
“học để chung sống với người khác” chính là “mình vì
mọi người, mọi người vì mình” thực hiện một cách hoàn
thiện. Chỉ khi đó, việc học để chung sống với người khác
mang tính chất “vô ngã” tức sống chung với người khác
mà bị “cái tôi” xấu xí chen vô quấy rầy
Xem thêm: phật pháp ứng dụng - Những lời dạy của Đức Phật giúp người sống tại gia có một cuộc sống trọn vẹn
Xem thêm: phật pháp ứng dụng - Những lời dạy của Đức Phật giúp người sống tại gia có một cuộc sống trọn vẹn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét